thiết bị giáo dục mầm non Giáo dục mầm non là một phần trong hệ thống giáo dục quốc dân. Giáo dục mầm non thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục trẻ từ 3 tháng đến 6 tuổi (Điều 21- Luật Giáo dục 2005), tạo sự mở đầu cho sự phát triển đầy đủ của trẻ, đặt nền tảng cho các cấp học tiếp theo và cho việc học tập suốt đời. Đó là chia sẻ của TS. Trần Thị Ngọc Trâm, nguyên Giám đốc Trung tâm nghiên cứu GDMN, Viện Nghiên cứu GD Việt Nam.

giai đoạn phát triển quan trọng nhất của đời người

Theo TS. Trần Thị Ngọc Trâm, sự vững mạnh của trẻ ở những năm đầu đời có liên quan nghiêm ngặt đến kĩ năng học tập của trẻ. Sự lớn mạnh này khởi đầu từ trước khi xuất hiện. bởi thế, việc chăm nom, giáo dục trẻ cần mở màn ngay từ trong bụng mẹ (chăm nom chỉ bảo bà mẹ khi mang thai) và đặc trưng quan trọng ở lứa tuổi sơ sinh đến 6 tuổi.

Trong giai đoạn lứa tuổi mầm non, ở trẻ xuất hiện những tài năng nhất định mang tính nền tảng cho những năng lực cao hơn sau này. Nếu những tài năng nền tảng đó bị bỏ dở hoặc liên tiếp không được nuôi dưỡng thì trẻ không được chuẩn bị tốt cho những bước lớn mạnh về sau ví dụ kĩ năng nghe nhìn, lớn mạnh ngôn ngữ, nhận thức.

Có thể nói những năm đầu đời là quá trình phát triển cần thiết nhất của đời người, đặc biệt là các công đoạn xử lí nước sạch não bộ tăng trưởng và hoàn thiện. Đây cũng là thời kỳ chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ dinh dưỡng, sức khỏe và có hành động lớn nhất đến kỹ năng nhận thức, học tập, tính cách và các kỹ năng của con người.

Còn chênh lệch đáng kể giữa các vùng miền

Trong các công đoạn xử lí nước sạch xây dựng và tăng trưởng nền giáo dục đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm lớn mạnh GDMN. Từ một vài trường lớp nhỏ lẻ, chưa có vị trí trong nền giáo dục, GDMN đã vươn lên một cấp học có vị thế trong sơ đồ giáo dục quốc dân từ năm 2005 đến nay.

Với những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước so sánh với phổ cập giáo dục mầm non trẻ 5 tuổi và sự lãnh đạo quyết liệt của các ngành học từ trung ương đến địa phương so với sự ủng hộ của các ban ngành có liên quan, cộng đồng xã hội, đến nay (năm học 2016-2017), 63 tỉnh đô thị trong cả nước đã ngừng phổ cập GDMN năm tuổi.

Bên cạnh những thắng lợi đã đạt được, GDMN hiện nay đang đứng trước nhiều cạnh tranh thử thách.

Thực tế hiện nay, quy mô phát triển GDMN chưa đồng đều giữa các vùng miền, cơ hội đến trường của trẻ em miền núi, vùng sâu, vùng xa vẫn còn giảm thiểu; chất lượng chăm nom, giáo dục trẻ ở vùng nông thôn, vùng khó khăn còn thấp và còn chênh lệch đáng kể giữa các vùng miền trong cả nước; những khó khăn, bất cập trong quy hoạch mạng lưới, chính sách phát triển GDMN, các điều kiện đảm bảo chất lượng GDMN và các yêu cầu về nguồn lực, đặc biệt trong tăng trưởng GDMN cho em bé dưới 5 tuổi.

Ở những nơi, GDMN còn thiếu cơ sở vật chất, trường lớp không đủ, mới chỉ ưu tiên phổ cập cho trẻ MN 5 tuổi, hoặc trường lớp không bảo đảm điều kiện làm ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục. Ở một vài khu đô thị, khu công nghiệp, tình trạng thiếu các cơ sở GDMN, người lao động phải gửi con trong các nhóm trẻ tự phát, không bảo đảm bình yên cho trẻ… => siêu thị đồ chơi mầm non trẻ em

những nơi vùng núi cao, vùng song nước (chẳng hạn đồng bằng sông Cửu Long), vùng dân cư ở không tập trung vẫn sống sót nhiều điểm trường lẻ, khó khăn trong việc đầu tư nguồn lực, nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ. Tình trạng thiếu phòng học chậm được khắc phục; vẫn còn phòng học tạm, học nhờ, tòa tháp vệ sinh, nước sạch, bếp ăn ở nhiều nơi còn thiếu thốn.

Ở những nơi, tình trạng thiếu giáo viên vẫn chưa được khắc phục, tỷ lệ giáo viên/lớp còn thấp; đội ngũ GV mầm non không định hình.

Những khuyến nghị

TS Trần Thị Ngọc Trâm khuyến nghị, thứ nhất, cần tạo mọi điều kiện để huy động tối đa cho đa số trẻ con trong độ tuổi từ 6 tháng – 6 tuổi đều được tiếp cận với dịch vụ mầm non có chất lượng. Mở rộng quy mô, số lượng và tăng cao chất lượng hệ thống các cơ sở GDMN trên địa bàn dân cư, đảm bảo sự cân bằng trong thụ hưởng dịch vụ GDMN cho mọi em bé, phục vụ nhu cầu gửi con của các bậc phụ huynh, khắc phục căn bản sự chênh lệch về vững mạnh GDMN giữa các vùng miền.

Thứ hai, có chủ trương chế độ từng bước thực hiện phổ cập cho trẻ mẫu giáo, trước mắt ưu tiên duy trì bền vững phổ cập giáo dục mầm non trẻ con 5 tuổi (PCGDMNTENT) và triển khai thực hiện phổ cập cho trẻ mẫu giáo bốn tuổi trên cơ sở để ý cả 3 mục đích: Công bằng, phù hợp, chất lượng.

Phải có cách tiếp cận tăng trưởng GDMN thích ứng với điều kiện thực tế vùng miền, đáp ứng các xu hướng của mối quan hệ giữa hệ thống GDMN và nhà nước: Vai trò và trách nhiệm của nhà nước -sự ủy thác một phần quyền lực nhà nước cho trung ương và địa phương - sự hài hòa cần có giữa giáo dục các trường công lập và tu thục; phụ thuộc cộng đồng để tăng trưởng các lớp mẫu giáo có sự hỗ trợ kinh phí nhà nước; Đề cao sự hài hòa, bổn phận, vai trò của gia đình và cộng đồng.

Thứ ba, tăng trưởng trẻ mầm non và GDMN tiếp tục cần được sự lưu ý đầu tư thích đáng của Nhà nước, trong đó, ưu tiên đầu tư cho các vùng cạnh tranh ở miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa; tiếp tục tăng cường chủ trương xã hội hóa giáo dục mầm non. Nhà nước tiếp tục có chế độ ưng ý nhằm: huy động toàn xã hội cùng chăm lo cho công tác chăm sóc giáo dục trẻ, huy động sự đóng góp nguồn lực của gia đình và toàn xã hội. tăng trưởng đa dạng hóa các loại hình GDMN: công lập, dân lập và tư thục.

Thứ tư, có nhiều chính sách cho giáo dục mầm non, đặc trưng là các chế độ làm tăng đầu tư ngân sách cho giáo dục mầm non, ban hành chế độ chế độ để huy động mọi nguồn lực xã hội đầu tư cho giáo dục mầm non. Tiếp tục có chính sách khuyến khích, hỗ trợ, tăng lên đời sống cán bộ ,GV đến công tác tại vùng cạnh tranh và thu hút trẻ mầm non ra lớp.

Thứ năm, mức lương cho GV phải đảm bảo đủ khuyến khích và yên tâm với nghề. Có chế độ ưu đãi, cung cấp nhà nước so sánh với các cơ sở giáo dục mầm non ngoài công lập như: có chính sách cho tư nhân vay vốn với lãi suất ưu đãi kích cầu để thành lập trường lớp tư thục rộng rãi, an ninh; thực hiện các chế độ hỗ trợ, ưu đãi về kinh phí, cơ sở vật chất và thuế để giúp họ mở rộng quy mô, trang thứ.

Các trường mầm non tư thục trong những điều kiện nhất định đều được nhà nước hỗ trợ với mức độ và chế độ khác biệt. Ví dụ cần đầu tư và cơ sở vật chất, hỗ cung cấp cho các trường mầm non ngoài công lập trong việc đào tạo GV… Tạo môi trường, cơ sở pháp lý tiện dụng cho phát triển mầm non tư thục.

Nguồn Tham khảo
https://thietbimamnon.top/
https://gitlab.com/snippets/1715495
https://goo.gl/ryHRY7